Khu di tích vụ thảm sát Vĩnh Trinh

   Vĩnh Trinh là tên gọi của hồ chứa nước nằm giáp ranh trên địa bàn của 3 xã: Duy Hoà, Duy Châu và Duy Trinh; Đài tưởng niệm vụ thảm sát Vĩnh Trinh được xây dựng trên đồi thông thuộc thôn Vĩnh Trinh xã Duy Hoà, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; Cách tỉnh lỵ Tam kỳ trên 50 Km về hướng Tây Bắc và cách  khoảng 3km về hướng Tây Nam.

 

Trong âm mưu mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình ở Đông Nam Á, từ lâu đế quốc Mỹ luôn tìm cách để có mặt ở bán đảo Đông Dương, nên từ giữa năm 1949, Mỹ đã ký thoả thuận với thực dân Pháp về việc viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương và từ năm 1950 Mỹ đã trắng trợn viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.Từ năm 1950 đến năm 1954, Mỹ liên tục tăng viện trợ cho thực dân Pháp nhằm tăng cường sức mạnh quân sự để đối đầu với nhân dân ta. Năm 1953, được sự đồng ý của Mỹ, Henri NaVa đại tướng - Tổng tham mưu trưởng Lục quân khối quân sự Bắc Đại Tây dương ( NaTo) được cử sang làm tổng chỉ huy quân Pháp trên toàn cỏi Đông Dương với kế hoạch bình định Việt Nam trong vòng 18 tháng. Trên thực tế trong thời gian này quân và dân ta đã giành thế chủ động trên khắp các chiến trường, liên tục tiến công và đẩy địch vào thế bị động, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (ngày 7/5/1954) buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) Công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Đây là thắng lợi to lớn sau chín năm trường kỳ kháng chiến của quân và dân ta, thể hiện lòng yêu nước, yêu độc lập tự do sáng ngời của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng với âm mưu thâm độc và thủ đoạn xảo quyệt đế quốc Mỹ đã thừa cơ hội, công khai nhảy vào miền Nam, thay chân Pháp lật đổ Bảo Đại, dựng lên chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và là căn cứ quân sự của chúng nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta.

Trong khi, chúng ta nghiêm chỉnh chấp hành qui định hiệp định Giơnevơ, chuyển quân tập kết ra Bắc và ổn định lại tổ chức, thì chúng đã ngang nhiên cấu kết với bọn Quốc dân đảng, bọn hận thù với cách mạng, ráo riết chuẩn bị lực lượng, mở các chiến dịch tấn công đánh phá đảng ta, tìm mọi cách hạ uy thế cách mạng.

Miền Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng, trong những ngày đầu tiếp quản địa bàn, bọn Mỹ - Diệm đã liên tục mở các cuộc khủng bố, đàn áp đẩm máu đối với những người yêu nước, chúng đã giết hại dã man đồng bào ta ở Chợ Được, Chiên Đàn, Cây Cốc, Ái Nghĩa, dọc sông Thu Bồn, Thị xã Hội An...và những đợt “tố cộng”, “diệt cộng” bắt bớ, giam cầm, tra tấn hết sức dã man, những hành động đó được cổ vũ bởi luật 10/59, nhằm dập tắt ý chí cách mạng thống nhất hai miền của đồng bào ta .

Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân và dân Duy Xuyên đã kiên cường chiến đấu đánh bật quân Pháp ra khỏi địa bàn, Duy Xuyên được giải phóng, nằm trong vùng giải phóng liên hoàn 4 tỉnh Nam-Ngãi-Bình-Phú và trở thành hậu phương của cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Những tưởng khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhân dân sẽ được sống trong độc lập tự do, nhưng vì đại cuộc, vì lợi ích chung của đất nước, nhân dân Duy Xuyên chấp nhận một thực tế đó là chuyển quân tập kết, về phía Bắc vĩ tuyến 17, tạm thời giao địa bàn lại cho ngụy quyền, chờ hai năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Với bản chất tàn bạo, nên khi vừa mới tiếp quản địa bàn, bọn Quốc dân đảng đã cài cắm người của chúng vào bộ máy chính quyền các cấp để tiến hành đàn áp, khủng bố, thanh trừng những người kháng chiến cũ. Chúng nêu khẩu hiệu: “Diệt ác, trừ cộng”, “Thà giết lầm mười người còn hơn để sót một tên cộng sản”. Chính vì vậy chúng đã chia nhau ngày đêm rình mò khắp các nẽo đường, ngõ ngách, cảnh bắt người dân vô tội, những người có liên quan đến Cộng sản...diễn ra khắp nơi. Do vậy, chỉ trong thời gian ngắn chưa đầy 4 tháng, kể từ ngày ký hiệp định đình chiến, hàng ngàn người dân bị bắt bớ, giam cầm, chịu cảnh tra tấn dã man tại hầu hết các xã trong huyện, ở mỗi xã chúng đều chọn đình, chùa, miếu để làm điểm tra tấn đánh đập như: chùa Bà Giám, đình Lệ Trạch (xã Duy Châu), đình Thu Bồn (xã Duy Tân), đình Xuyên Đông (Thị trấn Nam Phước), đình Thọ Sơn (xã Duy Nghĩa) nhằm truy tìm những người cán bộ đảng viên của ta và những người có liên quan đến cộng sản để ám hại, trong các đợt tra tấn chúng dùng mọi cực hình tàn bạo nhất mà chúng có thể nghĩ ra và thực hiện, dã man hơn cả thời trung cổ: đâm, chém, treo cổ, rạch miệng, cắt tai, móc mắt, mổ bụng, bỏ vào bao ném trôi sông, chôn sống rồi dùng trâu bừa lên đầu cho đến chết, chúng hành hạ thể xác, hủy hoại tinh thần, chúng sẵn sàng giết cả nhà nếu bị nghi là cộng sản.

 

Tội ác của bọn Mỹ - Diệm vô cùng tàn bạo, người người hờn căm, trời không dung, đất không tha, nhưng trong đó điển hình nhất là vụ thảm sát tập thể 37 đồng bào, đồng chí ta tại đập Vĩnh Trinh vào đêm 29 rạng ngày 30 giáp tết năm Ất Mùi (đêm 21 tháng 1 năm 1955) đã bị nhân dân cả nước và loài người lên án .

Lúc bấy giờ Vĩnh Trinh là hồ chứa nước, bốn bề  núi đồi hoang vắng, không có người ở và rất ít người lui tới, lại xa khu dân cư, nên bọn chúng chọn nơi đây để làm nơi thủ tiêu tập thể những cán bộ kháng chiến cũ nhằm dễ bề phi tang tội ác. 37 người chúng ghi vào danh sách để đưa đi hành quyết vốn là những cán bộ cơ sở của Duy Xuyên thời kháng chiến chống thực dân Pháp, đã bị bọn chúng bắt giam và tra tấn dã man trước đó, gần đến tết Ất Mùi chúng tung tin rằng sẽ thả những người bị bắt giam về nhà ăn tết, đồng bào; thân nhân những người bị giam cầm đều tin đó là sự thật.

Theo kế hoạch đã vạch sẵn, trưa 29 tết năm ấy, một đội quân đi tiền trạm vào đập Vĩnh Trinh, mang theo thức ăn tối và “đồ nghề” như búa , rìu. kìm, dao, kéo, dây dừa, dây kẻm gai đã dứt ra từng đoạn, chúng chọn một bãi đất bằng nằm về phía đông mặt đập, cách mé nước chừng 20 mét, làm nơi tập trung tù nhân, rồi chọn những hòn đá vừa hai người khiêng gom lại một chỗ... Bên mép nước dưlòng hồ đã có sẵn người trên một chiếc thuyền con chờ lệnh.

Khoảng 19 giờ tối hôm ấy, tại chùa bà Giám, chúng ra lệnh cho người cai ngục đọc danh sách từng người, gọi  là tù nhân được tha về ăn tết và bắt họ ký vào biên bản để làm bằng chứng. Nhưng với sự xảo trá vốn có, chúng đã bố trí sẵn lực lượng đón lõng ở các ngã đường, người nào được gọi tên cho về vừa bước ra khỏi cổng đều bị chúng bắt lại, trói cắp ké ( hai tay đưa ra sau lưng trói lại ), nhét giẻ vào miệng rồi cột xâu từng tốp từ bốn đến năm người, sau đó chúng dẫn vào đập. Đến khoảng 22 giờ, chúng đã đưa 37 đồng bào, đồng chí của ta tới đập Vĩnh Trinh, như được phân công trước chúng kéo từng tốp tù nhân đến sát bờ đập, dùng dây giật người ngã xuống đất, sau đó chúng tra tấn rồi thủ tiêu từng người, đổ dầu đốt cháy mặt mày, vứt lên ghe, cột đá rồi chở ra lòng hồ xô xuống dòng nước sâu thẳm, tốp đầu bị giết hại một cách dã man đã gây căm phẩn cho các tốp sau. Biết rồi thế nào cũng chết, đồng chí Tào Tri nguyên là Chủ tịch xã Duy Tiến (nay là xã Duy Hòa) đã vùng vẫy thoát khỏi tay chúng, hô vang khẩu hiệu: Đả đảo bọn giết người, Hồ Chủ Tịch muôn năm” rồi tự mình nhảy xuống vực sâu của đập, giữa lúc đó kẻ thù hoảng hốt, đội hình rối loạn. Càng hoảng hốt, càng rối loạn chúng càng dã man hơn, tiếp tục đánh, đâm, rạch mặt, cắt tai, xẻo mũi, đốt cháy da mặt các nạn nhân trước khi dìm xuống lòng hồ, trong lúc rối loạn, ông Lê Bài người làng Cây Quít xã Xuyên Thái nay (là xã Duy Phước) là một trong số nạn nhân bị hành quyết sau cùng, lợi dụng trời tối và cuộc ẩu đã đang diễn ra đã trốn thoát được, ông lần bò vào hốc núi rồi đi biệt tăm tìm kế sinh nhai, đến ngày Duy Xuyên đồng khởi giải phóng ông mới tìm đường về với cách mạng. Đây là nhân chứng sống của vụ tàn sát dã man này. Trong cuốn sách “Người sót lại” của tác giả Hồ Duy Lệ xuất bản năm 2002, nhà xuất bản Đà Nẵng nói rõ sự việc này (tài liệu có đính kèm).

Chật vật vô cùng với những người tù cộng sản, nhưng rồi chúng cũng làm xong công việc, lúc bấy giờ đã gần 1 giờ sáng. Dường như vẫn còn hãi hùng trước khí thế của những người tù cộng sản trước lúc hy sinh và sợ những tiếng súng, tiếng hô lúc này làm động đến tai những người chung quanh, bọn chúng lục tục lội về bằng đường ruộng không dám đi về bằng con đường cũ. Bụng đói sau những giây phút căng thẳng thần kinh để thực hiện hành động ám muội đó, chúng tập trung về nhà tên Bùi Ca thôn An Lâm xã Xuyên Lộc (nay là xã Duy Châu) để ăn uống nước khuya trước khi phân tán về nhà.

Tết năm ấy, nhiều gia đình vắng chồng, con, anh, em, vợ...có những người mẹ mỏi mắt chờ con, những người vợ bồn chồn ra ngõ đón chồng. Họ có biết đâu lệnh phóng thích của tên Lê Đình Duyên (quận trưởng Duy Xuyên lúc bấy giờ) đã đưa chồng con họ xuống nằm sâu dưới lòng hồ Vĩnh Trinh.

Chúng tưởng có thể dấu kín được hành động tội ác của chúng dưới lòng hồ, nhưng sự thiếu khôn ngoan đã tự tố cáo phơi bày tội ác của chúng trước quần chúng nhân dân. Xác những người chết sau 3,4 ngày trương phình lên, làm đứt tung những sợi dây dừa cột đá, nổi trên mặt nước. Trong lúc vội vã hấp tấp chúng cột cả những hòn đá quá nhỏ không đủ sức nặng giữ xác người, gió thổi tấp vào bờ bắc của đập Vĩnh Trinh.

Thân nhân chờ chưa thấy anh, em, chồng, con họ về ăn tết, vội vã đi tìm...tin tức được truyền đi nhanh chóng sau khi có người phát hiện thấy xác chết nổi trong đập. Ngày mồng bốn tháng giêng âm lịch, bà con quanh vùng lần lượt kéo nhau tìm xác tại đập.

Một quang cảnh thương tâm diễn ra dưới bờ đập, tiếng khóc than của thân nhân khi nhận mặt được người thân của mình, với những khuôn mặt hình hài không còn nguyên vẹn rất khó nhận ra: Có xác mất tai, mất mũi, có xác bị rách miệng... dưới ánh nắng mặt trời mặt mày bị nám đen, nức nẻ...

Chị Lê Thị Thanh nhận được chồng mình qua mảnh vá nơi áo do chính tay mình khâu.

Mẹ Điểm nhận ra đứa con trai yêu quí của mình qua mấy trái ớt xanh trong túi, mẹ đã gởi năm trái trong những ngày trước tết, khi còn bị nhốt ở trại giam, con đã ăn hết hai trái còn đây ba trái.

Nỗi đau thương và lòng căm thù quyện chặt, nuốt nước mắt vào lòng mang xác người thân về chôn cất.

Cuối cùng chỉ còn lại năm xác người chết không có thân nhân mang về, bà con đã đem lên bờ đập để chôn .

Dù kẻ thù đã lén lút và cố tình xoá đi mọi dấu vết để phi tang. song tội ác của chúng không tài nào che giấu và chối cải được, khi xác đã phình lên làm đứt dây, tuột đá nổi phình trên mặt nước có xác đã bị quạ mổ, cá rĩa. Tuy nhiên, sẽ không ai biết chắc chắn số người bị địch sát hại tại đập Vĩnh Trinh ngày đó chính xác là bao nhiêu.

Theo lời kể của con gái liệt sĩ Võ Trà, sáng mồng 4 tết, chị vào đập để tìm xác cha, tình cờ thấy được mảnh giấy dán trên phiến đá gần mặt đập ghi chữ đỏ : tại đập này hạ sát 52 người”, nhưng theo đơn tố cáo của Bà Đào Thị Hồng nạn nhân bị sát hại tại Vĩnh Trinh là 47 người. Nhưng về phía ta, ngay sau khi vụ thảm sát kết thúc để tố cáo tội ác của bọn Mỹ -  Diệm trước uỷ Hội quốc tế và dư luận thế giới, chúng ta đã dò tìm và lập danh sách số người mất tích đêm đó là 37 người, trong đó có một nữ chiến sĩ khi bị giết hại đang mang thai. Nên có con số là 38 người. Sau này khi xây dựng tượng đài đã làm 38 hoa sen, trong đó có một búp sen chưa nở.

Trong dân gian lưu truyền:

... Năm mươi bảy mạng trói tay trong một giờ

Ai hay chúng nó phỉnh phờ...

Những con số 47,38, 52 hoàn toàn không mâu thuẩn vì ở thời điểm lịch sử lúc bấy giờ số người bị địch bắt, mất tích lên đến hàng trăm, do đó các con số ấy vẫn là một ẩn sổ trong xâu chuổi tội ác của kẻ thù.

Vụ tàn sát tập thể tại đập Vĩnh Trinh cũng chỉ là một điển hình trong muôn vàn tội ác của Mỹ - Diệm đã gây ra trên khắp miền Nam. Để ngọn lửa cách mạng không bao giờ dập tắt trong nhân dân ta, vào những ngày cuối tháng 01 năm 1955, Huyện Uỷ Duy Xuyên đã họp mở rộng tại hang đá Ba Mạng xã Duy Sơn, phân tích, nhận định tình hình địch và thống nhất đề ra chủ trương cho cuộc chiến đấu mới, phân công đồng chí Trần Sa, đồng chí Phan Nghệ tìm mọi cách vượt rào cản của địch, trực tiếp đưa đơn tố cáo và đòi Uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến tại Đà Nẵng phải đến hiện trường để kiểm tra; phân công cán bộ tổ chức gặp gỡ thân nhân các đồng chí đã bị sát hại để nén đau thương thành hành động; chỉ đạo viết đơn, thư gởi đến các cơ quan trung ương của nguỵ quyền Sài Gòn để tố cáo và kêu kiện. Đồng thời lập danh sách những người bị giết giao cho các đồng chí tập kết ra Bắc làm nhân chứng tố cáo trước Uỷ hội quốc tế tại Hà Nội, nhờ đó sự kiện ở Vĩnh Trinh đã nhanh chóng được truyền đi khắp nước và trên thế giới qua các làn sóng của đài Tiếng nói Việt Nam.

Do bị sức ép từ nhiều phía, dư luận trong nước và quốc tế cực lực lên án. Uỷ hội quốc tế tại Đà Nẵng đã chuẩn bị cử một phái đoàn điều tra về đập Vĩnh Trinh, biết được việc này, chính quyền Mỹ - Diệm đã ráo riết tìm cách cản trở, tổ chức truy bắt và giam giữ những người tham gia vớt, chôn các nạn nhân, tạo cớ để tập trung cho học tập dài ngày đối với thân nhân những người bị hại, bắt họ phải học thuộc lòng câu trả lời với Uỷ hội quốc tế: “Người nhà của tôi theo Việt Minh, khi quốc gia đến đã làm việc cho quốc gia nên bị Việt Minh bắt đi mất tích”. Mặt khác chúng đã tổ chức phi tang hết các dấu vết nơi chúng đã gây ra tội lỗi, đào xác các ngôi mộ nạn nhân chôn ở sườn đồi gần mặt đập Vĩnh Trinh đổ xuống lòng hồ; chúng cho dựng một ngôi nhà tranh giống hệt như đã cũ bên cạnh cửa đập và bố trí bọn tay chân đến ở giả vờ là nhà dân định cư ở đây từ lâu, cho đào cây xanh đến trồng quanh  nhà, vào núi đốn củi đem về chất thành đống...Nếu Uỷ hội quốc tế đến hỏi thì thưa rằng: Tôi ở đây lâu năm nhưng vẫn không thấy, không biết gì cả”, tráo trở hơn chúng còn chuẩn bị lực lượng dân vệ, cảnh sát giả thường dân đưa thư cho Uỷ hội Quốc tế “đòi chồng , con, em tập kết ra Bắc phải trở về với gia đình để xây dựng chính nghĩa quốc gia”.

Mọi mưu toan đã được kẻ thù xếp đặt từ trước, nên khi xe của phái đoàn Uỷ hội quốc tế đến Duy Xuyên đã không tài nào vào được, chỉ có một số thành viên trong đoàn cố gắng lắm mới đi bộ đến nơi. Nhưng tại đây binh lính, cảnh sát, bọn mật vụ đã giăng bủa dày đặt không cho bất cứ người dân nào được tới gần Uỷ hội quốc tế. Một số cơ sở của ta vì nhiệm vụ đã phải dùng đá cột vào đơn - thư ném lên xe của phái đoàn để tố cáo lên sự thật. Nhưng dù bọn Mỹ - Diệm có tàn bạo xảo quyệt đến mấy cũng không làm nhụt được ý chí chiến đấu, không dập tắt ngọn lửa đấu tranh cách mạng đang bùng cháy trong lòng nhân dân Duy Xuyên.

       Vụ thảm sát tại đập Vĩnh Trinh, đã phơi bày tất cả sự độc ác, dã tâm, sự tráo trở của bọn Mỹ Ngụy, vi phạm điểm thứ 8 trong Hiệp định Geneve: “Hai bên cam kết sẽ không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh” nhưng bọn Mỹ Ngụy đã vi phạm nghiêm trọng hiệp định. Hành động dã man của chúng đã nói lên bản chất man rợ của chế độ bù nhìn Ngô Đình Diệm ở niềm Nam, cam tâm làm tay sai bán nước cho đế quốc Mỹ, mở đường để cho đế quốc Mỹ có mặt ở niềm Nam Việt Nam, nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa của Mỹ. Mặt khác nêu cao lòng trung nghĩa của cán bộ và nhân dân ta trước sự man trá của kẻ thù vẫn một lòng tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoảng của hiệp định Geneve, đấu tranh bằng phương pháp hòa bình để tiến đến thống nhất đất nước. Sự hy sinh anh dũng của cán bộ và đồng bào tại đập Vĩnh Trinh nói lên tinh thần kiên cường, anh dũng đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, tiếp nối được truyền thống hào hùng của cha ông, nêu tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là biểu tượng đấu tranh bất khuất của nhân dân ta chống bọn xâm lược, là tấm gương cho hậu thế soi chung để hiểu thêm một khúc quanh lịch sử đất nước. Tinh thần bất khuất của cán bộ và nhân dân ta trong khó khăn gian khổ vẫn kiên cường, vẫn tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng.    

  

Nhập mô tả ảnh tại đây

 

          Theo các vị lão thành cách mạng địa phương, thì sự kiện vụ thảm sát tập thể này xảy ra tại bờ đập, phía dưới cách tràn xả lũ bây giờ khoảng 200m, lúc đó bờ đập thấp hơn và mực nước dưới lòng hồ sâu hơn. Đập Vĩnh Trinh là nơi rất vắng, hiếm có người lui tới, thi thoảng lúc mùa màng rảnh rỗi và tình hình thôn xóm yên lặng thì bà con các chòm xóm lân cận vào đập để đánh bắt con cá, con tôm hoặc vào bìa rừng để kiếm củi, hái măng. Trên bờ dưới đập Vĩnh Trinh, dọc ven đường; gọi là đường như thế chứ lúc bấy giờ chỉ là những lối mòn nhỏ, còn lại chung quanh cây cối mọc um tùm, nước hồ sâu thẳm. Với địa hình như Vĩnh Trinh rất thuận lợi cho việc giết người nhằm thủ tiêu phi tang. Tên ác ôn Lê Đình Duyên, đã cho người vào khảo sát địa điểm, dò la tình hình, cuối cùng chúng đã chọn nơi có bờ đập thấp, dưới lòng hồ nước sâu để thực hiện âm mưu đen tối mà chúng đã rắp tâm vạch sẵn.

Theo như đơn tố cáo của Bà Đào Thị Hồng - Nguyên quán xã Duy Hưng( nay là xã Duy Hoà) nguyên là phó hội trưởng hội Phụ nữ địa phương gởi Uỷ hội quốc tế tại Hà Nội (Chi tiết xem đơn bản tiếng Pháp và tiếng Viêt). Lúc bấy giờ có ông Trương Ngọc Huynh người xã Duy Trinh, đi đánh bắt cá tại  đập Vĩnh Trinh vào ban đêm đã chứng kiến rõ sự việc: Vào khoảng nửa đêm, nghe tiếng la hét, ông đã chui vào bụi cây gần đó để có thể theo dõi sự việc. Một nhóm người (theo đơn của Bà Đào Thị Hồng là 47 người) bị lôi kéo dính vào nhau, chúng cột dây khoảng 4-5 người thành một nhóm để dễ áp tải và tránh tẩu thoát, từ trong đường làng dẫn vào, đến ngay bờ đập cách nơi ông theo dõi khoảng 100mét, ông nghe nhiều tiếng chửi mắng, la hét, đánh đập và tiếng hô khẩu hiệu, trong đêm vắng ông còn nghe có tiếng nổ kèm theo chớp lửa lóe sáng từng phát một, quá hoảng sợ, ông đã rời vị trí nấp vòng quanh núi về nhà.

Ông Phó Môn, làm nghề đánh bắt cá ở đập Vĩnh Trinh cũng khẳng định thấy có nhiều tử thi nổi trên mặt nước dưới lòng hồ vào ngày 25/1/1955.

 

Nhập mô tả ảnh tại đây

 

Sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, dù bận trăm công nghìn việc với một huyện miền quê, còn đầy rẫy những khó khăn, nhưng để ghi nhớ và tôn vinh những chiến sĩ cách mạng đã anh dũng hy sinh tại đập Vĩnh Trinh, chính quyền và nhân dân huyện Duy Xuyên đã xây tại đập Vĩnh Trinh, cạnh nơi xảy ra vụ thảm sát một Đài tưởng niệm. Công trình được khởi công xây dựng vào đầu năm 1985 đến cuối năm 1986 hoàn thành. Khu Đài tưởng niệm được toạ lạc trên ngọn đồi cao, thoáng, xung quanh là núi đồi, hồ nước các thung lũng bao bọc rất đẹp, thâm nghiêm và một hệ thống đập ngăn nước để làm thuỷ lợi tưới tiêu cho một số khu vực đất sản xuất nông nghiệp của ba xã Duy Châu, Duy Hoà, Duy Trinh khoảng 2.500ha lúa và hoa màu trên năm. Khu tượng đài có diện tích 7.200m2 thuộc tờ bản đồ  có ký hiệu UTM tiểu khu 415 – 416.

Từ tràn xả đập chính vào khoảng 40m đến bậc cấp đầu tiên xây bằng gạch ống, hai bên lề xây đá, lối đi trong lòng rộng 1,4m qua 15 bậc cấp dài 30m đến sân nghĩ thứ nhất rộng (7,5 x 11,8m), bên tay trái có trụ xây gạch tô xi măng khắc lõm chữ: “ khu tưởng niệm Vĩnh trinh” chữ màu đen trên nền trụ trắng, trong khu vực chiếu nghĩ có xây hai bục, bục bên trái có hình số 3, bục bên phải có hình số 9, từ chiếu nghĩ thứ nhất lên hai bậc cấp đến 1 chiếu nghĩ khác có cạnh (8,5 x 5m) có hai bệ xây gạch tô xi măng để khách nghĩ chân. Tiếp tục lên 5 bậc cấp lại gặp 1 chiếu nghĩ nhỏ hơn cạnh (1,6 x2m) tại đây lối đi được bẻ góc sang trái với 23 bậc cấp có chiều dài 23m, qua 2 bậc cấp rồi bẻ góc phải lên 15 bậc cấp nữa có chiều dài 15m, lại rẽ tay trái 1 đoạn dài 10m ứng với 9 bậc cấp, tiếp tục đi lên 1 đoạn dài 10m ứng với 9 bậc cấp, xong lại đi lên 2 bậc cấp qua 20m, tại đây lối đi được mở rộng hơn, hai bên đều có cột trụ bê tông; bên trái 3 trụ, bên phải 4 trụ; trụ được cách điệu là những cây hương vòng; táng hương trên cùng hình lục giác; cây cao nhất 4,10m; cây thấp nhất 3,05m; ở dưới chân các trụ đều có đế hình chữ nhật, tiếp tục vào 1 đoạn dài 20,40m, rộng 2,50m và xuống 3 bậc cấp đến lòng hồ khu tượng đài

 

Nhập mô tả ảnh tại đây


Khu Đài tưởng niệm gồm hai vòng thành hình vuông, thành ngoài xây bằng đá, mỗi cạnh 30,20m dọc theo hai bờ thành ngoài có nhiều bồn hình tròn có đường kính từ ( 1 - 1,20m) được trồng hoa sứ trắng. hai bên là hai mảng phù điêu ốp đá mô tả cảnh giết người man rợ năm xưa. Bên trong là hồ nước rộng hình vuông có cạnh 18,50m, lòng hồ sâu 0,60mét, dưới lòng hồ có nước, trên mặt nước nổi lên 38 hoa sen vừa nở tượng trưng cho 38 tấm lòmg kiên trung, bất khuất của những chiến sĩ cách mạng đã ngã xuống trong vụ thảm sát này; trong đó có 1 búp sen chưa nở đó là biểu tượng của 1 hài nhi chưa chào đời vì có 1 nữ chiến sĩ khi bị giết hại đang mang thai. Ở góc trái lòng hồ 1 tượng đài chiến sĩ cao 10mét đứng hiên ngang, ngẩng cao đầu, 2 tay bị trói sau lưng sừng sửng nổi bậc trên nền trời xanh thẳm. Nơi đặt bồn lư hương được trang trọng xây trên bệ bê tông hình trái tim ở phía trước. Sau cùng ở 1 vị trí dễ đập vào mắt ta nhất đó là tấm bia lớn chiếm gần hết diện tích phía sau ghi lại sự kiện đẫm máu này, tấm bia đá khắc chữ lõm màu đen trên nền đá trắng, nội dung bia:  

Nơi đây đêm 21/1/1955 ( tức đêm 29 rạng ngày 30 tết Ất Mùi ) bọn Mỹ- Diệm đã tàn sát dã man 38 chiến sĩ cách mạng bằng cách mổ bụng, moi gan, rạch mặt, khoét mắt, dùng dây thép gai buột đá dìm xuống lòng hồ Vĩnh Trinh .

Đây là một trong những tội ác điễn hình nhất của bọn Mỹ - Diệm đối với nhân dân Duy Xuyên đã bị nhân dân cả nước lên án và lương tri của loài người phẩn nộ .

Khu Đài tưởng niệm Vĩnh Trinh có bố cục đẹp, qui mô hoành tráng do nhà thiết kế Phan Nam thực hiện, được xây dựng trên đồi thông cao thật đẹp. Nơi đây đã trở thành điểm dừng chân của hàng ngàn du khách hàng năm đến viếng, dâng hương tưởng niệm nhất là các đoàn khách của đoàn thanh niên, các lớp học ngoại khoá ...là địa chỉ đỏ để bồi dưỡng thêm lòng yêu nước của thế hệ cha anh, cảm nhận trực quan mà sâu sắc rằng, để có độc lập tự do hôm nay, bao người con ưu tú của quê hương đã ngã xuống, thấy được cái giá phải trả để có độc lập tự do, và để thấy rằng trong cuộc chiến đấu chống quân thù trong tất cả sự hy sinh, sự hy sinh xương máu là vinh quang nhất.

Địa điểm vụ thảm sát Vĩnh Trinh được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 309/QĐ/BVHTTDL/2011 ngày 26/01/2011 xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.

Bình luận

Bình luận, ý kiến của bạn

Xuất bản thông tin

icon

bản đồ hành chính

icon

danh mục

Navigation Menu

icon

VĂN BẢN

Navigation Menu

icon

hình ảnh

ImagePublic

icon

video

VideoPublic

Đang tải...
icon

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LuotTruyCap

Thống kê truy cập

THỐNG KÊ TRUY CẬP

Tổng lượt truy cập hôm nay: 200
Tổng lượt truy cập: 775

icon

liên kết website

Navigation Menu